25/8/10

VÕ CÔNG ĐIỆN BIÊN PHỦ VÀ THIÊN TÀI QUÂN SỰ VÕ NGUYÊN GIÁP

25/08/2010

VÕ CÔNG ĐIỆN BIÊN PHỦ VÀ THIÊN TÀI QUÂN SỰ VÕ NGUYÊN GIÁP
Lê Phú Khải


Đại tướng và nhà báo Lê Phú Khải tại nhà riêng ĐT, tháng 2-2004. Ảnh: Lê Phú Khải.
Sau nhiều ngày sĩ quan quân báo của ta hỏi cung, Tướng Đờ Cát tỏ ra không ngoan cố, ương ngạnh như Lăng-Le, phó chỉ huy của ông ta ở Điện Biên Phủ, cuối cùng, Đờ Cát có nguyện vọng được hỏi “ông sĩ quan quân báo” vài điều về Tướng Giáp.
Đờ Cát nói: “Tôi thấy Tướng Giáp không những giỏi về chỉ huy du kích mà còn giỏi cả chỉ huy trận địa chiến, về chỉ huy hợp đồng binh chủng, về nghi binh và đánh lừa tình báo đối phương. Điều tôi ngạc nhiên là không biết Tướng Giáp đã tốt nghiệp từ trường võ bị cao cấp nào? Ông ta đã bí mật đi nghiên cứu ở Nga chăng?... Đôi khi tôi nghĩ hay Tướng Giáp là một trong số ít những người Việt Nam trước đây đã được đào tạo ở trường võ bị Xanh-Xia (Saint Cyr) của chúng tôi và nay đi làm Việt minh (!)? Hay Tướng Giáp đã tốt nghiệp ở một học viện quân sự ở Mỹ? Tôi nghe nói có nhiều sĩ quan cao cấp được cụ Hồ Chí Minh đưa về nước năm 1945 bằng máy bay của Mỹ?!”.

Ông ta còn nói thêm: “Quân đội viễn chinh Pháp và các tướng tá Pháp chúng tôi là một quân đội nhà nghề, thiện chiến và trang bị hiện đại. Việc Tướng Giáp thắng chúng tôi ở Điện Biên Phủ làm chúng tôi ngạc nhiên về tài năng của ông ta?” (Hỏi chuyện tướng Đờ Cát – NXB Thanh Niên, 2000; trang 178-179 của Lê Mạnh Thái ).

Một tướng thực dân như Đờ Cát làm sao có thể hiểu nổi tài năng của một người chỉ huy như Tướng Giáp bắt nguồn từ đâu, kết tụ từ những ngọn nguồn nào?

Công bằng mà nói, Tướng Giáp được hạnh phúc chỉ huy một đội quân cách mạng sẵn sàng quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh. Sức mạnh vô địch của đội quân đó là lòng yêu nước nồng nàn và rực lửa căm thù. Căm thù bọn người đã đốt nhà, giết vợ con cha mẹ họ, đã đày đọa cả dân tộc họ, trong gần một thế kỷ ôm mối hận làm nô lệ, làm kẻ mất nước… Vì thế, khi có thời cơ họ đã chiến đấu không tiếc xương máu để rửa mối hận mất nước đó. Và, người chỉ huy đội quân không tiếc xương máu đó lại là người biết tiết kiệm từng giọt máu của đồng đội, biết nuôi dưỡng sức mạnh từ việc chăm sóc bát cơm nóng cho quân lính dưới chiến hào… Những giọt máu hào hùng và những giọt máu được tiết kiệm… đã làm nên màu đỏ rực ánh mặt trời chiến thắng chiều 7-5-1954 tại Điện Biên Phủ.

Điều hạnh phúc thứ hai của Tướng Giáp là được thừa hưởng tư tưởng quân sự Hồ Chí Minh từ lúc mới gặp Người tại Trung Quốc. Đó là đường lối từ giác ngộ chính trị đến vũ trang toàn dân để “Đem sức ta mà giải phóng cho ta”; là cách đánh du kích Việt Nam “ai có gươm dùng gươm ,ai có súng dùng súng, không có súng thì dùng gậy gộc cuốc thuổng…”. Trước lúc Đại tướng lên đường xuất trận, Bác nói với ông: “Tướng quân tại ngoại” và “phép dùng binh là thiên biến vạn hóa”. Chính nhờ uy tín của Chủ tịch Hồ Chí Minh và câu “thần chú” của Bác mang theo “chắc thắng mới đánh, không chắc thắng không đánh” mà Tướng Giáp đã thuyết phục được các đồng chí của mình… để chuyển từ phương châm “đánh nhanh thắng nhanh”sang “đánh chắc tiến chắc”… Một quyết định mà ông tự nhận là… “khó khăn nhất trong cuộc đời cầm quân của tôi”!

Cả ba lần người viết bài này được gặp trực tiếp Đại tướng, khi hỏi về những quyết sách ở Điện Biên Phủ, Đại tướng đều nói về những đêm không ngủ của ông để suy tư về lời căn dặn của Bác trước lúc chia tay lên đường ra trận…

Vận dụng sáng tạo tư tưởng quân sự Hồ Chí Minh, Tướng Giáp đã thành công ở Điện Biên Phủ. Đó là những Sư đoàn “chân đất”, như cách nói của người Pháp, biết giấu mình trong chiến hào đánh lấn, nương mình vào lòng đất mẹ quê hương để đương đầu với bom đạn sắt thép bạo tàn của kẻ thù mà đánh “trận địa chiến hào tấn công” chưa hề có trong lịch sử quân sự. Đó là sáng tạo của những người du kích Đồng bằng Bắc Bộ có kinh nghiệm đào hầm bí mật chống càn giữ làng, là cách đánh du kích chỉ Việt Nam mới có; người chỉ huy đề ra phương châm chiến lược, người lính đề xuất cách đánh đào xuyên hàng rào kẽm gai. Đó là dân chủ Điện Biên Phủ! “Trận địa chiến hào xiết vòng vây lửa” ở Điện Biên Phủ là võ công hiển hách của quân dân ta ở thế kỷ XX, là một cống hiến cho khoa học lịch sử quân sự thế giới, là thiên tài quân sự Võ Nguyên Giáp, là “thiên biến vạn hóa” của tư tưởng quân sự cha ông ta được vận dụng ở thời đại Hồ Chí Minh.

Thông thường trong chiến tranh ,phía tấn công phải có lực lượng gấp 5 lần trở lên so với phía phòng ngự. Nhưng so sánh lực lượng hai bên ở Điện Biên Phủ thì thấy, ban đầu địch có 12 Tiểu đoàn và 7 Đại đội bộ binh, gồm phần lớn những đơn vị tinh nhuệ nhất. Địch còn có hai Tiểu đoàn pháo 105 ly 24 khẩu, 2 Tiểu đoàn súng cối 120 ly 20 khẩu,1 Đại đội pháo 155 ly 4 khẩu, 1 Đại đội xe tăng 18 tấn 10 chiếc. Không quân thường trực tại sân bay có 7 khu trục, 5 trinh sát, 4 vận tải và 1 trực thăng. Ngoài ra 2/3 lực lượng máy bay ném bom tiêm kích và 100% máy bay vận tải toàn Đông Dương yểm trợ cho Điện Biên Phủ. Tổng quân địch ở Điện Biên Phủ là 12.000 người. Lực lượng ta có 9 Trung đoàn bộ binh (27 Tiểu đoàn), 1 Trung đoàn sơn pháo 24 khẩu, 2 Tiểu đoàn lựu pháo 105 ly 24 khẩu, 4 Đại đội súng cối 120 ly 16 khẩu,1 Trung đoàn cao xạ pháo 37 ly 24 khẩu, 2 Tiểu hoàn công binh. Ta hơn địch về số Tiểu đoàn (27/12) nhưng quân số mỗi Tiểu đoàn của ta chỉ bằng 2/3 mỗi Tiểu đoàn địch. Ta cũng hơn địch về số lượng pháo (64/48) nhưng đạn pháo dự bị của ta lại rất hạn chế. Ta không có xe tăng và chỉ có một Trung đoàn pháo cao xạ 37 ly để đối phó với toàn bộ không quân địch ở Đông Dương. Xét toàn cảnh,ta vẫn ở vào thế yếu đánh mạnh.

Nhưng ta chủ động tấn công, tự quyết định đánh hay không đánh, chủ động lựa chọn điểm đánh và thời gian đánh. Đánh hay không đánh đều có lợi cho ta vì đương nhiên, ta đã kìm chân được một lực lượng lớn địch ở đây để giành được thắng lợi trên nhiều chiến trường Đông Xuân 53-54. Địch ở Điện Biên Phủ tuy mạnh nhưng bị nhốt trong các cũi thép gai và hầm hố một cách thụ động, không thể đem toàn bộ sức mạnh để đánh trả, cứu nguy cho một cứ điểm bị tấn công. Ta đem toàn bộ sức mạnh để đánh một điểm, ta bao vây chia cắt địch ra mà đánh dần, linh hoạt và cơ động hoàn toàn. Như vậy nếu xét trong một trận đánh vào một vị trí nhất định, trong một thời điểm quyết định, thì ta vẫn mạnh hơn địch. Mạnh sẽ thắng yếu. Tài thao lược của Tướng Giáp là ở chỗ phân tích sắc bén thế và lực trong những tình huống cụ thể ở Điện Biên Phủ để tìm ra cách đánh thích hợp, “đánh chắc tiến chắc” để đi đến đại thắng! Đó là gì nếu không phải là biện chứng trong khoa học quân sự.

Một Việt Kiều ở Pháp có tâm sự với người viết bài này… Ông ta được một sử gia Mỹ cho hay: Ngay cả Napôlêông khi bước vào đường binh nghiệp thì đã có sẵn một đội quân để chỉ huy.Tướng Giáp phải xây dựng quân đội từ mấy chục người thành những binh đoàn để lần lượt đánh thắng nhiều danh tướng của cường quốc Pháp như Đờ Lát, Xa Lăng cho đến Na Va ở Điện Biên Phủ… Điều đó chưa thấy trong lịch sử quân sự thế giới… Và đây cũng là lần đầu tiên một nước nhỏ đánh thắng một đế quốc hùng mạnh, mở đường vùng lên cho các dân tộc đang bị nô lệ.

Cả ba lần gặp gỡ, Đại tướng đều căn dặn các nhà báo chúng tôi: Điện Biên Phủ là chiến thắng của cả nước. Cả nước chia lửa với Điện Biên Phủ để con nhím khổng lồ này phải tắt thở ở đây mà không được các nơi khác hà hơi tiếp sức…

Trong thời gian quân ta hoãn trận đánh, bỏ cách đánh nhanh thắng nhanh để chuẩn bị theo phương án mới (từ 26-1-1954 đến 13-3-1954), Đại tướng đã chỉ đạo các chiến trường trên toàn quốc nổ súng. Ở Bắc Tây Nguyên, những cứ điểm mạnh nhất của địch đã bị bộ đội Liên khu V san phẳng, chiến dịch Tây Nguyên đã nổ ra cực kỳ đúng lúc. Tiếng súng phối hợp trên chiến trường Hạ Lào cũng đã nổ. Ở Thượng Lào, trên chặng đường 200 km, bộ đội ta đánh nhiều trận, tiêu diệt và làm tan rã 17 Đại đội địch, trong đó có một Tiểu đoàn Lê Dương bị tiêu diệt gọn. Ta giải phóng một vùng ước tính 10.000 km, cô lập hoàn toàn Điện Biên Phủ. Ở Đồng bằng Bắc Bộ trên đường số 5 nối Hà Nội với Hải Phòng cũng như nhiều tuyến khác, quân ta triệt để đánh phá giao thông vận tải, uy hiếp hậu phương, ngăn chặn địch tiếp viện cho Điện Biên Phủ. Đêm 4 tháng 3 năm 1954 quân ta đột nhập sân bay Gia Lâm đốt cháy 12 máy bay địch. Hai ngày sau bộ đội địa phương Kiến An lại đột nhập sân bay Cát Bi, phá hủy 4 máy bay B26 và 6 máy bay Moran. Ở Bình Trị Thiên, cực Nam Trung Bộ quân ta lật đổ nhiều đoàn tàu địch. Tại Lăng Cô (Thừa Thiên), quân ta lật đổ 2 đầu máy, 19 toa xe, diệt 400 địch. Trận Phố Trạch (Quảng Trị), ta tập kích diệt 200 địch thu 2 đại bác. Tại Nha Trang ta đốt cháy hàng triệu lít xăng. Tại Nam Bộ, phân Liên khu miền Tây, lực lượng vũ trang giữ vững và phát triển vùng giải phóng, tiêu diệt và bức rút trên 1.000 đồn trại, tháp canh. Ngày 24-2-1954 tại Tầm Vu tiêu diệt và bắt sống toàn bộ Tiểu đoàn ngụy và Đại đội Pháp số 14. Bộ đội Vĩnh Long còn bắn chìm và hỏng 7 tàu chiến. Tại Sài Gòn, đột nhập kho bom Tân Sơn Nhất, một trong những kho bom lớn nhất của địch tại Đông Dương, phá hủy 300 tấn bom, tiêu diệt cả Đại đội lính Âu Phi bảo vệ kho. Tại Bà Rịa – Chợ Lớn quân ta đột nhập khách sạn Ô Cấp, diệt hơn 100 sĩ quan Pháp và Mỹ…

Có thể nói, ta đã ghìm chân địch trên khắp các chiến trường, không cho Na Va còn gì để cứu nguy cho Điện Biên Phủ. Ban đầu, ném 6 Tiểu đoàn xuống Điện Biên Phủ Na Va chỉ mới có ý định ngăn chặn một Đại đoàn chủ lực ta tiến vào Tây Bắc và làm một cái “nhọt tụ độc” mà thôi! Nhưng chỉ 3 tháng sau, từ những cuộc điều binh của ta trên bàn cờ Đông Xuân 53-54, Điện Biên Phủ đã trở thành nơi quyết định vận mệnh của chiến tranh Đông Dương. Đài TNVN đưa tin chiến thắng rầm rộ trên các triến trường, duy Điện Biên Phủ chỉ thỉnh thoảng mới nhắc tới !!!

Ngày 4-3-1954 Na Va lên thăm Điện Biên Phủ một lần cuối. Cả Cô Nhi, Đờ Cát và nhiều sĩ quan Pháp lúc này chỉ mong một cuộc tấn công của ta vào Điện Biên Phủ để trông chờ một chiến thắng lớn về quân sự nhằm cứu vãn quân Pháp trên khắp các chiến trường. Quân Pháp cho rằng, Điện Biên Phủ là một “cơ hội bằng vàng” để đánh qụy quân Việt Minh (!). Riêng Na Va, linh cảm thấy một điều gì không lành nên yêu cầu có thêm một trung tâm đề kháng nữa để đối phương phải điều chỉnh kế hoạch. Chỉ qua vài lần như vậy là mùa mưa sẽ tới, trận đánh sẽ không xảy ra… nhưng Đờ Cát đã phản đối. “Chỉ sợ chúng không tới. Cần phải đẩy chúng tiến công để kết thúc sớm”. Cô Nhi cũng phản đối: “Không nên làm Việt minh thay đổi quyết định. Cả tập đoàn cứ điểm đều trông đợi một chiến thắng lớn bằng phòng ngự… Sẽ là một thảm họa về tinh thần nếu Việt minh không đánh !!!”(Điện Biên Phủ điểm hẹn lịch sử – Hồi ức của Đại tướng Võ Nguyên Giáp. Nhà văn Hữu Mai thể hiện. NXB Quân đội nhân dân, 2001; trang 198).

Tổng chỉ huy Na Va đã không dám quyết đoán như Tổng chỉ huy Võ Nguyên Giáp đã quyết đoán khi hoãn trận đánh, thay đổi cách đánh ở Điện Biên Phủ .

Trong lần gặp gỡ các nhà báo trong nước và quốc tế hồi tháng 4-1994 tại Điện Biên, nhân chuẩn bị kỷ niệm 40 năm chiến thắng Điện Biên Phủ, Đại tướng còn căn dặn: Các tượng đài ở Điện Biên Phủ sau này phải làm thế nào để nhìn vào đó, đồng bào cả nước, nhất là đồng bào từ miền Nam xa xôi ra viếng thăm Điện Biên Phủ đều thấy có hình bóng của mình trong đó…

Những tướng đánh thuê chuyên nghiệp, lấy chiến tranh làm nghề nghiệp như Đờ Cát không thể nào hiểu nổi sức mạnh và trí tuệ của một cuộc chiến tranh nhân dân. Nhất là, khi cuộc chiến tranh đó có được những người chỉ huy có văn hóa và nhân cách lớn như Võ Đại tướng thì sức mạnh của nó nhân lên ngàn lần.


LPK

HC Mạng Bauxite Việt Nam biên tập

* Chú thích: Các số liệu, dẫn liệu trong bài này chủ yếu dựa vào cuốn Điện Biên Phủ điểm hẹn lịch sử - hồi ức của Đại tướng Võ Nguyên Giáp. Nhà văn Hữu Mai thể hiện. NXB QĐND, 2001.

Được đăng bởi bvnpost vào lúc 00:59

Nhãn: Võ Nguyên Giáp

23/8/10

GS Đặng Phong nói chuyện với các bạn trẻ

GS Đặng Phong nói chuyện với các bạn trẻ
(Hà Nội - Tháng 11-2008)
 
Lê Ngọc Sơn ghi lại

 
Trong vai trò là một nhà nghiên cứu về lịch sử kinh tế, GS nhận thấy điểm nổi trội nhất của tư duy kinh tế Việt Nam là gì?
 
Hôm nay tôi nói chuyện với các bạn trẻ tức là tôi nói với tôi 50 năm về trước. Khi nói chuyện với các bạn trẻ thì tôi nhớ lại rằng khi tôi 20 tuổi, tôi nghĩ như thế nào, tình cờ theo cách gì, tôi đọc sách báo, nghe thầy/cô giảng thì tôi nghĩ gì? Hôm nay có một bước lùi 50 năm của đời tôi, nói chuyện với các bạn khiến tôi phải hình dung như tôi nói với chính tôi trước đây 50 năm. Nói như thế thì mình khởi đầu hơi xa một chút, bới nếu không thế các bạn trẻ sẽ không hiểu được khi đọc cuốn "Tư duy kinh tế" của tôi. Những người lớn hiểu, các bạn trẻ tôi chắc sẽ chưa hiểu được mục đích là tại sao thế hệ trước lại có nhiều cái huý kỵ như thế, lại sùng bái một số lý thuyết như kế hoạch hoá tập trung, công hữu xã hội chủ nghĩa, tại sao các cụ già mình lẩm cẩm thế, các bạn sẽ đặt câu hỏi là công xã mình tồi quá nhỉ? Tôi muốn nói để các bạn hiểu thế hệ đó không tồi và nếu không có người giải thích, các bạn trẻ sẽ hiểu mấy ông già này cuồng tín quá. Phải trở lại với chủ nghĩa thực dân và chủ nghĩa đế quốc; năm 1945, người Pháp đô hộ Việt Nam một cách tàn bạo vô nhân đạo khiến nền kinh tế của ta gần như không phát triển, chỉ có cướp bóc và cướp bóc. 80 năm để cho dân nước ta mù chữ, để dân phải đói khát, thiếu thốn, rách rưới, một năm giỏi lắm được 3 tháng ăn cơm còn lại ăn cháo, ăn sắn, ăn ngô… Cái nền thống trị của thực dân Pháp mà để cho nền kinh tế Việt Nam như thế à? Tuy nhiên, có như thế mới nảy sinh ra Nguyễn Ái Quốc, mới có những chàng thanh niên tuấn tú, kiên cường đi tìm con đường để giải phóng đất nước. Nếu nước Pháp đối xử với Việt Nam như bây giờ thì ai đi giải phóng đất nước làm gì. Và trong cái bế tắc ấy thì rất nhiều người đi tìm các con đường khác nhau. Phong trào Cần Vương là muốn khôi phục lại triều đại phong kiến, hay phong trào Duy Tân thì muốn học Tây, học Nhật cũng đều không thành công. Rồi đến Quốc Dân Đảng của Nguyễn Thái Học đi kiếm mấy khẩu súng sau đó định đi cướp đồn địch, vẫn không có kết quả.
 
Có một đội ngũ duy nhất, đông đảo tài giỏi nhất đi tìm đến với chủ nghĩa Mác-Liên Xô, đó là con đường giải phóng Việt Nam. Tôi muốn nói kỹ về việc đó để các bạn trẻ hiểu rằng, thế hệ đó không dại dột. Đó là lớp người thông minh và kiên cường nhất Việt Nam thời kỳ đó. Và sự lựa chọn hữu ý ấy có cái lý của nó. Liên Xô khi đó đánh bại phát xít Đức, trở thành một cường quốc, đó là một tấm gương. Lựa chọn Lênin, chủ nghĩa xã hội là lựa chọn của đại đa số người dân thông minh nhất Việt Nam khi đó. Tôi muốn các bạn trẻ hiểu được điều đó để kính trọng những người đi trước kể cả những sai lầm của họ. Phải hiểu những sai lầm ấy là sự trả giá cho những cái đúng. Cái cơ bản là chúng ta huy động được toàn dân để giải phóng đất nước này, dành độc lập cho nước Việt Nam. Việt Nam có thể tự hào với thế giới vì chiến thắng Điện Biên Phủ, với đại thắng mùa xuân…
 
Thứ hai, cũng liên quan tới các bạn, các bạn rồi cũng sẽ như tôi thì hãy cảnh giác. Có khi tuổi trẻ làm được những điều rất tốt nhưng đến một giai đoạn nào đó, tình thế đổi mới, mọi thứ khác đi mà mình vẫn dùng theo phương pháp cũ thì không được. Điều đó đã xảy ra với thế hệ của chúng tôi trước đây, tôi tin tưởng những lý thuyết đó là đúng và nó đúng, tuy nhiên trong lịch sử loài người không có bất cứ lý thuyết nào là đúng tuyệt đối với mọi thời đại cả, nó đúng ở lúc này ở chỗ này nhưng vào chỗ khác chưa chắc đúng.
 
Chiến thắng của chúng ta năm 1975 giúp một thế hệ rất đông trong đó có tôi nghĩ rằng mình có thể trở thành một cường quốc trên thế giới. Đi tiếp về con đường đó nhưng chúng tôi đã vấp, mô hình kinh tế đó vào thời bình không thích ứng và gây ra ách tắc như tôi đã nói. Cái ách tắc đó tôi không đổ lỗi cho riêng ai, đó là lỗi của thời đại. Có điều đáng tiếc là lúc đó chúng ta bị ám ảnh quá nhiều bởi những nguyên tắc cũ kỹ mà lẽ ra sẽ tỉnh ngộ sau 1-2 năm thì chúng ta mất 10 năm, điều đó làm chậm bước đi của chúng ta. Tôi nghĩ rằng cái đó là bài học cho thế hệ mai sau. Đến khi 30 tuổi thì chớ có nghĩ và làm như khi mình 20 tuổi mà phải làm khác đi, đừng có chủ quan và duy ý chí. Đó là một bài học giá trị.
 
Thứ ba, tôi muốn nói với các bạn rằng bắt đầu đổi mới kinh tế Việt Nam thì có một sự đổi mới về “nhân dụng”. Thế hệ trước chúng tôi, những người trẻ gần như không có bao nhiêu vị trí. Thế hệ mà khi những nhà lãnh đạo trong Bộ Chính trị đã 60-70 tuổi thì 40 tuổi vẫn cứ bị coi là trẻ con, trong khi ngoài 40 tuổi người ta có thể làm Tổng thống Mỹ được. Có một giai đoạn người trẻ không được trọng dụng. Tôi nhớ thời tôi có một câu hát rất thấm thía với thế hệ trẻ: Khi người ta cần già thì mình còn trẻ, khi mình còn trẻ thì người ta lại cần già. Khi người ta cần đàn bà thì mình lạ là đàn ông. Trải qua bao xuân hạ thu đông, đến khi cần trẻ thì ông đã già. Đó là cái chua chát của thế hệ chúng tôi.
 
Thế hệ các bạn trẻ từ sau đổi mới thì có thêm một sự đổi mới nữa về nhân lực. Có rất nhiều chuyên gia trẻ tuổi tạo dựng được một chỗ đứng do chính năng lực của họ. Trong Viện nghiên cứu của tôi ở trường ĐH có thể thấy rõ điều đó. Những em đã học ở nước ngoài về rất có bài bản, ngoại ngữ rất tốt, đọc sách rất nhiều, các cụ già trợn mắt: Ừ, thằng này giỏi, cãi nó không được. Đó là sức mạnh của các bạn, của trí tuệ và sự thật. Những thế hệ chúng tôi có học đến như thế cũng không được vì điều kiện của người ta phải là ở nhà tù Côn đảo, phải tham gia chiến tranh, phải có bao nhiêu huân huy chương cơ. Thế hệ bây giờ thì không, kiến thức là cái quyết định. Các bạn đang làm một cuộc cách mạng, từ ngày Đổi mới các bạn trẻ (mà bây giờ cũng sắp thành các cụ già rồi) đã đem lại những đóng góp rất quan trọng vào công cuộc chuyển đổi của đất nước. Bấy giờ giới trẻ có thể làm rất nhiều việc, tôi càng ngày càng thấy giới trẻ vượt qua mình. Tôi rất thích dùng người trẻ: Nói chuyện thì với cụ già, nhưng làm việc thì phải cùng người trẻ. Ở nhà này, trong đội ngũ của tôi, làm việc là tôi dùng người trẻ vì đem lại hiệu quả rất cao và điều quan trọng là họ không kênh kiệu về thành tích của mình. Cho nên tôi bảo, họ nghe tôi rất nghiêm chỉnh, và tôi có chỗ nào không đúng thì họ cũng sẵn sàng góp ý.
 
Thế hệ trẻ bây giờ có những vận hội rất lớn, các bạn không bị ngăn chặn bởi một cái hiện tượng mà tiếng Tây có nghĩa là “kính lão”. Vẫn kính lão vì các bạn đến nhà tôi, kính trọng tôi vì tôi lớn tuổi, đi xe bus ở nước ngoài thì người ta nhường ghế cho tôi. Kính theo mức ấy thôi chứ không phải là kính theo kiểu ông bảo gì tôi cũng phải nghe. Họ có suy nghĩ và quan điểm của mình, có cách giải quyết của mình. Tôi đánh giá như thê là một cách kính lão hiện đại.
 
Điều cuối cùng tôi muốn nói với các bạn là: Tuổi trẻ có cơ hội để thâu nạp cho mình rất nhiều kiến thức. Tự tìm cho mình một chỗ đứng không cần dựa giẫm vào ai, không cần xin xỏ, bon chen. Nếu thực sự có năng lực thì sẽ có chỗ đứng trong xã hội. Cái chỗ đứng là của cá nhân, điều quan trọng hơn là góp một phần nào đó cho sự phát triển của xã hội thì các bạn cũng hoàn toàn làm được. Điều tôi muốn khuyên các bạn là phải luôn biết cảnh giác với bản thân mình.
 
Nhiều khi nói chuyện với rất nhiều bạn trẻ tôi phải thành thật nói rằng thầy trò chúng tôi cãi nhau rất nhiều, tuổi trẻ nghĩ mọi việc đơn giản quá. Nhiều người muốn cải cách đất nước. Tôi hỏi: Em sẽ cải cách bằng cách nào thì họ im lặng. Con đường để đưa nước Việt Nam thành một quốc gia phát triển không đơn giản như các bạn nghĩ. Cải biến một xã hội không phải là quét một cái nhà, không phải là khiêng một cái bàn với mấy cái ghế, muốn chuyển biến điều đó cần có sự chuyển biến của hàng triệu triệu con gnười. Muốn là một chuyện, được hay không lại là chuyện khác. Muốn mà không được thì sinh ra tức tối, chán nản. Đó là điều mà tôi khuyên các bạn nên tránh. Phải kiên nhẫn và cố gắng để hiểu xã hội này. Phải nhìn xã hội như thực thể của 80 triệu con người chứ không phải đơn giản. Mình có ý kiến như thế này, người khác lại không nghĩ thế. Làm thế nào mà có thể bắt người ta theo mình được? Chính vì vậy, ngoài mở mang kiến thức các bạn còn phải suy nghĩ rất sâu sắc.
 
Qua quãng thời gian nghiên cứu về tư duy kinh tế Việt Nam, ông có thể vẽ lên vài nét về đặc điểm của nó?

Tư duy kinh tế ở Việt Nam thế hệ chúng tôi có thể gọi là tư duy sách vở thì đúng mà cũng không đúng, vì sách vở thời đó chẳng có bao nhiêu, toàn bộ tư duy kinh tế xoay quanh bộ Tư bản. Nếu sách vở chỉ có thế thì làm sao có kinh tế học được. Bây giờ mới thấy kinh tế học là hàng trăm bộ sách, và một bộ sách best-seller cũng chỉ tồn tại được khỏang 10 năm và sau đó lạc hậu và lại có những cuốn khác. Tư duy kinh tế (khi đó) mà cứ nằm trong bộ Tư bản luận của Mác thì không được.
 
Nghĩa là chẳng có mô hình nào là hoàn hảo cả, và bắt chước là một đại họa?

Tư duy kinh tế bây giờ là một thứ kinh tế pha tạp giữa nhiều lý thuyết khác nhau. Những năm 1992-1993 thì thấy tư duy kinh tế của Nhật Bản là quan trọng nhất. Bây giờ thì Nhật Bản hỏng rồi. Một thời thì học Thái Lan nhưng bây giờ ai sang sân bay Thái Lan để học đây? Một thời học Mỹ, mê thích Mỹ lắm nhưng khi Mỹ sa lầy ở Irắc thì ai dạy Mỹ đây? Mỹ khủng hoảng và câu hỏi đặt ra là phải làm kinh tế như thế nào vì Mỹ là đầu mối của cuộc khủng hoảng. Mỹ đã từng dạy cả thế giới, vậy thì giờ Mỹ lâm hoạ, ai sẽ dạy cho Mỹ đây? Chúng ta đi theo sau quá nhiều nước khác nhau và đến nay thì vẫn chưa thể hình thành cho mình một hệ thống tư duy kinh tế cho chính mình. Tuy nhiên điều đó không đáng trách vì hình thành cần có thời gian, 10 năm chưa đủ. Phải có các nhà kinh tế học. Câu hỏi đặt ra là những nhà kinh tế học là ai? Họ theo định nghĩa là những người có thể đưa ra tư duy kinh tế góp phần cho sự phát triển của đất nước mình. Có một học thuyết như thế không, chúng ta tìm đi. Câu trả lời là chưa có. Chúng ta đang tìm theo cách là cứ đi sẽ đến. Như mô hình kinh tế bao cấp thời trước, bây giờ tôi tổng kết lại thì nó là cái gì? Còn bây giờ chúng ta đang vừa làm, vừa thiết kế, vừa thi công. Trong thi công, điều chỉnh cái bản thiết kế. Đó là cách của người Việt Nam. Hay nếu nói có thể vẽ một đường nét nào đó chính xác nhất cho tư duy kinh tế của Việt Nam thì đó chính là một ngôi nhà vừa thiết kế vừa thi công.
 
Để hình thành lên một đội ngũ những nhà kinh tế học đúng nghĩa như mình mong muốn, thì lãnh đạo cần phải thay đổi cách nhìn nhận với khoa học, đặc biệt là khoa học kinh tế?
 
Thực tế trái với tư duy kinh tế đôi khi tạo nhận thức rất khác nhau. Thực tế được nhìn từ rất nhiều chiều. Tôi nhớ những năm kinh tế khủng hoảng 1978-1979, dân không có gạo phải đi ăn mày thì có người cho rằng là do địch phá hoại nên cần trấn áp, bắt bớ bọn phản động. Có người lại nhìn nó là giác ngộ của quần chúng lao động còn kém nên cần tăng cướng giáo dục. Có người cho rằng trình độ quản lý kém dù đã mời 5-7 chuyên gia Liên Xô về giảng dạy. Đó là những cách chẩn bệnh của những ông lang khác nhau. Cuối cùng thì cuộc sống nó phải tự mở đường đi. Đây là bệnh của cơ chế, không phải địch phá hoại, không phải giác ngộ của quần chúng. Để tìm ra căn bệnh này chúng ta mất 10 năm. Bây giờ cũng thế, lạm phát, khủng hoảng, tham nhũng là một thực tế. Nhưng giải thích có nhiều cách khác nhau: Tại trình độ giáo dục của cán bộ kém à? Thế thời kháng chiến đói quá phải tham nhũng à? Thời chúng tôi thiếu đói mà giữ cái kho không thất thoát một hạt thóc nào cả. Thế thì giải thích bằng sự thiếu đói thì có đủ và đúng không. Đó là điều thứ nhất.
 
Điều thứ hai, bây giờ không phải là nhận thức nữa mà là lợi ích. Rất nhều các nhóm lợi ích đã hình thành và chúng tác động đến mặt này mặt kia của các biện pháp. Ta cũng biết là một “đại gia” có thể ảnh hưởng tới quyết định của tỉnh và nhiều ông đã phải ra toà chính vì có nhiều nhóm lợi ích điều hành chính sách. Đến lúc đó thì không phải là đúng sai nữa mà là có lợi hay không có lợi.
 
Theo quan điểm của giáo sư, những khó khăn của nền kinh tế hiện nay có phản ánh điều gì về tư duy kinh tế người Việt không?
 
Việt Nam là đối tượng chịu ảnh hưởng của khủng hoảng chứ không phải đối tượng gây ra nên tư duy kinh tế Việt Nam không liên quan tới cái khủng hoảng đó. Tuy nhiên vấn nạn của nền kinh tế Việt Nam hiện nay là tham nhũng, là tăng trưởng có một tỉ lệ rất ảo…
 
Có vẻ như trong những năm gần đây thì tư duy kinh tế của Việt Nam có kiểu áp dụng hỗn tạp từ nhiều quốc gia khác. Nên chăng, mỗi quốc gia cần tạo cho mình một tư duy kinh tế mang bản sắc riêng?
 
Tôi nghĩ không nên dùng từ hỗn tạp, nó chỉ là sự pha tạp. Chúng có sự khác nhau vì hỗn tạp thì không có trật tự gì cả, bừa bãi trong khi sự pha tạp thì giống như ta làm cocktail. Chúng ta theo mô hình Nhật Bản, Thái Lan, cũng có ý kiến muốn theo mô hình Bắc Âu nhưng trong một khoảng thời gian ngắn không thể có ngay một chủ thuyết cho chính mình và đứng có yêu cầu Việt Nam phải có cái đó ngay lập tức. Tôi e rằng ai đó sẽ tham vọng quá khi nói rằng muốn đưa ra một chủ thuyết cho Việt Nam trong 1-2 năm tới. Để có được một chủ thuyết phát triển thì phải có sự phát triển đã. Trên cơ sở sự phát triển đó, mình rút kinh nghiệm từ thực tế để đưa ra lý thuyết phát triển. Hàn Quốc, Đài Loan hay Nhật Bản đều như thế. Một thuyết phát triển không phải là một cái bánh mỳ mà mình nặn rồi cho vào lò là được. Cái lò kinh tế đó cần thời gian hàng chục năm mới có thể đưa ra sản phẩm của trí tuệ. Hiện nay, chúng ta đang tìm và thế hệ các bạn phải đóng góp chất xám.
 
Cái Tết năm 2006 được coi là cái Tết vui nhất của người Việt vì kinh tế phát triển chưa từng có. Tuy nhiên, từ đó mà ta thấy rằng cách chèo lái nền kinh tế Việt Nam, giống như một người trẻ mới lớn có tính cách bộc phát: nhanh chóng tự hào, say sưa vì cái thành tích mà mình đạt được?

Xét về đổi mới kinh tế Việt Nam thì đúng là từ thời kỳ đó đến nay Việt Nam là một nước trẻ, với thế giới thì giống như một chàng trai trẻ mới chập chững ra thành phố mang theo cả những thành tích. Thành tích là thật nhưng lại dễ làm người ta có những niềm vui quá đáng làm người ta quên đi mình còn rất trẻ.
 
Tôi chưa thấy Thủ tướng nước nào sang Mỹ gặp Tổng thống bên họ mà phải cầm giấy đọc. Mà một tổng thống thì có gì là quá ghê gớm, ngồi với George Bush cũng giống như ngồi với sinh viên, thanh niên các bạn thôi, việc gì mà phải khúm núm, khép nép đến mức không thể nói được một câu. Ông không nhớ trong đầu ông cần nói gì à mà phải cầm giấy? Thế thì ông điều hành cái đất nước như thế nào, cũng cầm giấy à? Điều đó nghĩa là chúng ta có nhiều điều đáng tự hào nhưng cũng có không ít điều đáng hổ thẹn.
 
Theo ông người trẻ nên xây dựng cho mình cái lý tưởng như thế nào để có thể góp phần vào công cuộc xây dựng đất nước trong tương lai?
 
Thế hệ các em so với chúng tôi hơn nhiều cái những cũng kém nhiều cái. Tôi cảm thấy các em không yêu nước như chúng tôi trước đây. Các em nghĩ đến nhà cửa, tài khoản (tiền), không nghĩ tới sự dấn thân cho điều gì đó dài hơi có thể gian khổ. Các em có phần nghĩ đến mình nhiều hơn trước kh nghĩ đến đất nước. Tôi miễn bình luận vì cái đó không phải lỗi của các em mà là tại lịch sử. Tiếp nữa là các em được mở cửa ra thế giới, tiếp cận với nhiều thứ và vớ được bất cứ cái gì cũng cho là của quý, của thiên hạ là nhất. Nhiều em đi học nước ngoài về, say sưa với những lý thuyết học được và nghĩ rằng có thể thay đổi đường lối của đất nước rối nhưng theo tôi thì còn lâu. Khi chụp giật được một vài cuốn sách, một vài bài báo thì nghĩ mình có thể làm thánh làm tướng đều được. Tuổi trẻ hay hấp tấp những đáng khen ở chỗ có lòng can đảm, dám nói ra chính kiến của mình. Thế hệ chúng tôi không có được điều đó.
 
Gần đây, Chính phủ đã bắt đầu cảnh báo vần đề môi trường mặc dù nó đã không còn mới trên thế giới nữa. Có người nói mình đang phát triển bằng mọi giá trong đó có hy sinh môi trường cùng các yếu tố khác. Vậy suy cho cùng, nét tư duy kinh tế của mình là như thế nào trong thời điểm hiện tại, thưa ông?
 
Cái đó không phải là tư duy của riêng Việt Nam, Thái Lan, Indonesia cũng như thế, đặc biệt là các nước đang phát triển cần đi nhanh để đuổi kịp người khác. Nhưng hậu quả của nó là ông càng chạy nhanh bao nhiêu ông càng đi chậm bấy nhêu. Đó là hạn chế trong tầm nhìn xa trông rộng của Việt Nam và nhiều quốc gia đang phát triển. Đừng có trách ai vì đó là quy luật chung của một nước đang phát triển.
 
Việt Nam và các nước đang phát triển thiếu đi một đội ngũ trí thức rất mạnh mẽ  đủ sức ép đối với nhà nước. Ví dụ, Cuba là nước khó khăn về kinh tế nhưng lại có một đội ngũ trí thức tuyệt vời, luôn có nhiều ý kiến với nhà nước. Nhưng đội ngũ trí thức đó suy cho cùng thì vẫn phụ thuộc vào sự phát triển. Cho đến khi giải phóng, Cuba đã là một nước phát triển nhất châu Mỹ Latin, là tủ kính của nước Mỹ cho nên hệ thống đại học của nó rất tốt. Cuba xuất phát điểm từ sau cách mạng đã là rất cao rồi. Vấn đề môi trường suy cho cùng là vấn đề văn hoá và tri thức của một dân tộc. Ở những nước đang phát triển thì hai yếu tố này đều rất kém: Người ta có thể vứt rác, khạc nhổ, có thể xả chất thải ra sông suối rồi lại tắm rửa, bơi lội ở đó… Đó là vấn đề về văn hoá và môi trường.
 
Thế làm thế nào để phát triển bền vững?
 
Phải nghĩ tới văn hoá. Tôi không hiểu sao có cả một Bộ về Văn hoá mà không có các chương trình ở trường học, trên TV về giáo dục môi trường, về văn hoá. Có thể nói, văn hoá đại chúng của ta rất kém, chỉ mang nặng khẩu hiệu. Trung Quốc cũng có rất nhiều vấn đề về môi trường và văn hoá những họ mạnh tay hơn. Ví dụ như tôi đi Vạn lý trường thành, không có một người nào đeo bám du khách để bán cái này cái kia cả. Họ cũng cần tiền đấy chứ! Nhưng kỷ cương của Nhà nước của họ rất chặt. Ở Việt Nam không có bất cứ ai quản lý cái đó cả. Đó là lỗi của Nhà nước chứ không phải là nền văn hoá Việt Nam. Những chuyện đó tưởng nhỏ nhưng vô cùng quan trọng. Tuy nhiên, tôi thiết nghĩ để giải quyết cái đó không khó.
 
Văn hoá, tri thức, kỷ cương của Nhà nước, sự sắc nét trong bộ máy chính phủ là những yếu tố mà tôi nghĩ Việt Nam sẽ làm được nếu mạnh tay. Tôi nghĩ Việt Nam có một đội ngũ không tồi, vấn đề là sử dụng họ như thế nào. Văn hoá của người VIệt Nam không cao, không thấp. Còn nhớ năm 1945, chủ tịch Hồ Chí Minh đã phát động chương trình “Đời sống mới” với nội dung như không được gọi vợ bằng mày, không tiểu tiện/đại tiện bậy bạ, mọi quầy bán háng phải có chỗ vứt rác,…  Mọi người tuân thủ nghiểm chỉnh và sau vài tháng mang lại hiệu quả rất tích cực. Cho nên điều đó khó mà không khó nếu Nhà nước mạnh tay….
 
Xin cảm ơn GS!

Lê Ngọc Sơn gửi, lên trang viet-studies ngày 22-8-10

22/8/10

Tại Sao Mình Học Nghề Lái Xe?

Cha mẹ nào sinh con ra cũng muốn con mau lớn và muốn con mình có cái nghề để nuôi bản thân và vợ con của mình, nhưng mình phải tự hỏi học gì? làm gì? chọn nghề gì? đây là vấn đế nang giải khi tuổi mới lớn, nếu chọn sai đường coi như cuộc đời đi đâu và về đâu chỉ có "trời" mới biết được....? thời gian không chờ mình, chỉ có mình mới giải quyết được mình mà thôi.
Trước khi chọn nghề mình phải tự hỏi rằng tại sao mình phải học nghề? học để làm gì? được cái gì? và sẽ mất cái gì? cái gì mình có được không bao giờ tự nhiên có chỉ đánh đổi nhiều hay ít mà thôi. Nếu các bạn trả lời được tất cả câu hỏi trên thì hãy nghĩ đến chọn nghề, vì lúc này mình cũng không còn ngại khó, niềm tin sẽ lóe lên, thấy được tương lai đang chờ phía trước...

Chọn nghề lái xe?

Hiện nay học lái xe ôtô rất hót đối với xã hội bây giờ, hầu như từ nam đế nữ từ trẻ đến già đều rất thích học lái xe. Nhưng chọn nghề lái xe chuyên nghiệp để mưu sinh là không dễ vì nghề này dễ vi phạm pháp luật và tai nạn nghề nghiệp luôn rình gập mà không bao giờ dự đoán được, vì vậy đòi hỏi những bản thân mình phải hội tụ rất nhiều yếu tố như sau:

1/Những lời Khuyên

- Không được nghiệm rượu và các chất kích thích ảnh hưởng đến thần kinh nếu sử dụng nó sớm muộn gì cũng sẽ vô "nhà đá".

- Cần phải có sức khỏe, nhạy bén, nhanh nhẹn vì lái xe chuyên nghiệp mình phải lái xuyên suốt ngày đêm nên cần có sức khỏe, Nhanh nhẹn sẽ giúp cho mình trong xử ký tình huống vì tai nạn xảy ra liên tục không bao giờ biết trước, nhạy bén trong khi nhận hàng cũng như đón trả khách, nếu mình không đạt yêu cầu thì chủ sẽ cho thôi việc ngay.

- Tính chịu khó, chịu khổ sau khi ra trường, vì lái xe chưa có kinh nghiệm không bao giờ chủ thuê lái vì vậy mình phải theo học nghề thực tiển kinh nghiệm của các lái xe lâu năm như: sửa chữa xe hỏng hóc, kinh nghiệm xử lý tình huống mà ở trường không có thầy nào dạy được...do vậy tôi khuyên các bạn nên đi học việc (lơ xe) khoảng 1 năm thì sau này các bạn sẽ có tay nghề vững vàng hơn.

- Luôn luôn lắng nghe, luôn luôn học hỏi vì nghề lái xe không ai dạy xử lý tình huống tại nạn, tự học qua lời kể hay những vụ chứng kiến tai nạn, tự rút cho mình một bài học của người khác đã mắc phải sai lầm. Phải đọc báo thường xuyên để biết những thay đổi về chính sách, nghị định, Luật giao thông,...thông tin những vụ tai nạn lớn trên cả nước mà rút kinh nghiệm riêng cho mình, biết được đoạn đường thường xuyên xảy ra tai nạn để phòng nếu có dịp đi ngang qua...

- Trước khi học lái xe chuyên nghiệp bạn phải tự hỏi rằng khi ra trường mình xin việc ở đâu? Bạn phải  xem sức lao động của mình là một thứ hàng hóa, khi xin việc là mình đang "bán sức lao động" cho chủ, nên mình phải chuẩn bị trước khi xin việc cái mình có các lái xe khác không có?. Nếu mình đi mua hàng hóa thì sẽ mua cái gì mình cần chứ không bao giờ mình cái không cần, khi xin việc nó cũng vậy. Nếu lái xe tải hay thuê bao chỉ cần kinh nghiệm, nhưng lái ở công ty hay cơ quan thì phải làm gì khi đi phỏng vấn mình là ứng cử viên sáng giá nhất.

Ví dụ: làm việc ở công ty ngoài thời gian lái xe bạn có rất nhiều thời gian rảnh bạn phải làm gì?, đánh bài hay càfe? các bạn thấy chán lắm không? do vậy mình cần học thêm các chứng chỉ như: học ngoại ngữ, sửa chữa điện, vi tính... , mạc nhiên sẽ có thương hiệu riêng cho mình sẽ không bao giờ thấp nghiệp như các lái xe khác.

- Khi ra trường tôi khuyên các bạn nên xin vào công ty hay cơ quan, vì nơi đây lương tương đối ổn định ,ít xa nhà kiến thức học hỏi ở nơi đây sẽ tốt hơn nhưng, điều kiện xin việc phải chuẩn bị như tôi nói ở trên thì khả năng vào đây không khó. Đời người chỉ có vài cơ hội, Cơ hội luôn đến với mình bất ngờ, nếu mình không chuẩn bị trước.

2/ Nghề lái xe có gì vui?

- Học nghề lái xe chuyên nghiệp thời gian rất ngắn, ra trường có việc ngay, lương tương đối cao, trình độ không đòi hỏi cao lắm có thể không biết chữ vẫn lái xe giỏi.

- Theo cảm nhận của tôi nghề lái xe là vui nhất, vì vừa làm ,vừa được đi du lịch, được đi từ Bắc đến Nam, biết rất nhiều nơi, tiếp xúc mọi thành phần từ nộng dân đến trí thức...từ thằng hai lúa một thời gian ngắn thành "ma lanh", nhanh nhẹn... có khi cơ hội đem đến lương rất cao, có nhiều người  học đến Đại học và thăng tiến dễ đổi đời lắm đấy.

Đây là những kinh nghiệm 16 năm lái xe của tôi, muốn chia sẽ cùng các bạn có dự định chọn nghề lái xe, nếu các bạn nào có kinh nghiệm khác hay hơn thì bình luận thêm để cùng chia sẽ học hỏi lẫn nhau. Bài sao mình sẽ viết bài kinh nghiệm chay xe đường dài mời các bạn đống góp ý kiến.

Một Khuôn Mặt Khác Của Lưu Á Châu

22/08/2010

Một khuôn mặt khác của Lưu Á Châu

Dương Danh Dy trích dịch



Vừa qua Vietnamnet và một số báo mạng tiếng Việt nước ngoài đã đăng bài viết của Lưu Á Châu (mạng BVN đã đưa lại bài này từ VNN), một Trung tướng, nguyên Chính ủy không quân Trung Quốc. Điều đáng tiếc là người giới thiệu bài viết trên chỉ sử dụng khoảng 7 trang trên tổng số 22 trang (chữ Trung Quốc) của bài nói đó, bỏ hẳn phần “Niềm tin” và đặc biệt đã bỏ qua đoạn nói rõ quan điểm của tác giả về vai trò của quân đội Trung Quốc, đồng thời cũng là quan điểm của tác giả đối với cuộc đàn áp phong trào học sinh sinh viên Trung Quốc năm 1989 và cuộc chiến tranh biên giới năm 1979…

Vì vậy xin mạn phép trích dịch bổ sung mấy đoạn đưới đây để bạn đọc trong và ngoài nước có cái nhìn toàn diện hơn, chính xác hơn về quan điểm nghe có vẻ cấp tiến của Lưu Á Châu để bạn đọc nhìn nhận toàn diện hơn về con người hai mặt của Lưu. Có thể sau khi đọc xong, một số bạn đọc sẽ vỡ mộng về “người Trung Quốc tiến bộ này” như đã có bạn đọc nói với tôi… Nhưng sự thật vẫn là sự thật, dù có đi theo “con đường Mỹ” chăng nữa, Trung Quốc “bá quyền nước lớn” vẫn là “Trung Quốc bá quyền nước lớn”. Xin đừng ảo tưởng.


Dương Danh Dy


Vấn đề niềm tin
Martin Luther King nói: “Tôi có một giấc mơ”, cũng giống như ông, tôi có một giấc mơ. Giấc mơ quân đội hùng mạnh, giấc mơ đất nước hùng mạnh. Hai giấc mơ đó thực ra là một giấc mơ, đã trở thành niềm tin kiên cường của tôi. Chúng ta đều là quân nhân. So với tôi, các anh đều là những quân nhân trẻ tuổi. Khi lên lớp tại Đại học Kỹ thuật quốc phòng tôi đã từng dẫn một câu của Mao Chủ tịch: “Thế giới là của các bạn, cũng là của chúng ta, nhưng nói cho cùng là thuộc về các bạn”. Tôi nói, quân đội là của các anh, bởi vì các anh cũng là mặt trời của quân đội. Tôi vô cùng yêu mến đạo quân này. Tôi tham gia quân đội năm 15 tuổi, đến nay đã 34 năm, Tôi đã hiến dâng tuối thanh xuân cho quân đội, tôi nhất định sẽ hiến dâng cả đời cho quân đội, tuy vậy tôi không dám nói liệu có hiến dâng con cháu cho quân đội hay không. Tôi sinh ra trong doanh trại quân đội, lớn lên trong doanh trại quân đội. Cha tôi là một người lính già, năm 1939 ông và 6 thanh niên nông dân cùng quê tham gia Bát Lộ quân. Trong chiến dịch tàn khốc Mạnh Lương Cố, 6 người ấy đều hy sinh trong chiến đấu, chỉ còn lại một cha tôi…Từ cải cách mở cửa đến nay về chính trị quân đội Trung Quốc đã hai lần phát huy vai trò quan trọng.

Một là cơn bão táp chính trị “6-4” [đàn áp Thiên An Môn]. Đồng chí Tiểu Bình đã nói, cơn sóng gió này sớm muộn sẽ dến. Không thể không đến, nhưng có khả năng sẽ đến sớm. Sau “6-4” công cuộc cải cách mở cửa ở nước ta bước sang một trang mới. Gần đây mọi người học tập Báo cáo chính tri của “Đại Hội 16” trong đó có một mệnh đề quan trọng, đó là thành tựu huy hoàng 13 năm qua của trung ương đảng do đồng chí Giang Trạch Dân làm hạt nhân… Có thể nói không có sự giải quyết vấn đề “6-4” sẽ không có cục diện phồn vinh hưng thịnh của đất nước chúng ta hôm nay; không có quân đội, vấn đề “6-4” không thể giải quyết được, nghĩa là sẽ không có 13 năm huy hoàng. Sáng sớm ngày 6 tháng 4 hôm ấy, Bắc Kinh sau khi trải qua một đêm trời long đất lở đã đột nhiên yên tĩnh, rất nhiều bộ đội thu dọn tụ tập tại quảng trường Thiên An Môn, không biết tình hình bước tiếp theo sẽ phát triển ra sao… Buổi sáng ngày hôm đó, mọi điện thoại ở Bắc Kinh đều không gọi được. Vì sao gọi không được? Bởi vì toàn thể thị dân đều núp trong nhà gọi điện thoại, trong chốc lát đường dây quá tải. Tin đồn không cánh mà bay, bay khắp cả nước. Phương Tây huyên náo. Con mắt toàn thế giới tập trung nhìn vào quảng trường Thiên An Môn. Chủ tịch nước Dương Thượng Côn lúc đó nói: “Trên quảng trường Thiên An Môn sáng sớm hôm đó nếu có một Trung đội có vấn đề là nguy vô cùng”. Thế nhưng quân đội của chúng ta là quân đội do đảng lãnh đạo. Không có Trung đội nào [có vấn đề] cả. Quân đội đã trải qua thử thách. Quân đội đã trả giá nặng nề cho “6-4”… có người Bắc Kinh đã hạ độc thủ để ngăn cản quân đội vào thành, có một Trung đội trưởng bị đánh bị thương rồi bị đem ra thiêu sống, có hai Tiểu đội trưởng sau khi bị thiêu chết rồi còn bị treo lên… Quân đội Trung Quốc đã phát huy tác dụng quan trọng trong sự kiện “6-4”, ổn định giang sơn, đó là một lần cống hiến của quân đội trong thời kỳ mới.

Một lần nữa là cuộc đánh trả tự vệ đối với Việt Nam năm 1979 và sau đó là cuộc chiến đấu tại “Lưỡng Sơn” (tức vùng Pháp Ca Sơn). Đặc biệt là cuộc đánh trả tự vệ Việt Nam năm 1979, rất nhiều đồng chí chúng ta không nhận thức được ý nghĩa của cuộc chiến tranh này. Đương thời đã có người nói: chúng ta và người Việt Nam đánh nhau, bây giờ hy sinh là liệt sĩ, tương lai một khi quan hệ hai nước tốt, bọn họ sẽ là cái gì? Tôi nói: “vẫn là liệt sĩ” Vì sao vậy? Chúng ta cần xem xét cuộc chiến này từ góc độ chính trị. Ý nghĩa của chiến tranh luôn luôn ở ngoài chiến tranh. Cuộc chiến tranh này của đồng chí Đặng Tiểu Bình là đánh để cho hai người xem, một là Đảng Cộng sản Trung Quốc, hai là bọn Mỹ. Năm 1978 đồng chí Tiểu Bình được phục hồi, tháng 1 năm 79 thăm Mỹ, tháng 2 đánh nhau. Xem xét từ chính trị thấy, trận đánh này không đánh không được. Vì sao vậy? Sau khi đồng chí Tiểu Bình phục hồi ý tưởng chiến lược cải cách mở cửa Trung Quốc đã hình thành trong tim gan đồng chí, muốn thực hiện ý tưởng chiến lược đó cần phải xây dựng được quyền uy tuyệt đối trong đảng. Phải đánh một trận. Lúc đó “lũ bốn người” vừa bị đập tan, những người có tư tưởng cực tả trong đảng chống Đặng càng chống đường lối và chính sách của ông hơn. Muốn cải cách cần phải có quyền uy. Biện pháp nhanh nhất để xây dựng quyền uy là đánh nhau….

Người Mỹ sau khi hao binh tổn tướng tả tơi nhếch nhác rút khỏi Việt Nam, đồng chí Tiểu Bình đã nói, chúng ta cho Việt Nam bài học. Lúc đó Việt Nam chạy theo ai? Chạy theo Liên Xô, lúc đó đồng chí Tiểu Bình phát động cuộc đánh trả tự vệ Việt Nam là đã vạch ranh giới giữa Trung Quốc với cái gọi là mặt trận xã hội chủ nghĩa Liên Xô… Mười năm trước đồng chí Tiểu Bình đã nhìn rõ điểm này, dùng cuộc chiến tranh đó để vạch rõ ranh giới với anh… Vừa rồi tôi nói trận đánh này cũng là đánh vì người Mỹ, có nghĩa là nói để cho người Mỹ hả giận. Có chứng cứ không? Có. Ngày hôm kia đồng chí Tiểu Bình vừa rời Nhà Trắng Mỹ về thì ngày hôm sau đánh. Vì sao muốn để người Mỹ hả giận? Người Mỹ vừa vỡ đầu sứt tai chạy khỏi Việt Nam. Vì sao chúng ta phải làm cho họ hả giận? Thực ra điều đó cũng không phải vì Mỹ mà là vì chúng ta vì cải cách mở cửa. Trung Quốc muốn cải cách mở cửa mà không có viện trợ của phương Tây đứng đầu là Mỹ là không có khả năng. Đánh trận này, viện trợ kinh tế, viện trợ khoa học kỹ thuật, bao gồm cả viện trợ quân sự và tiền vốn sẽ không ngừng chảy vào Trung Quốc. Thời kỳ trăng mật Trung Mỹ dài tới 10 năm, mãi đến ngày 6 tháng 4 năm 1989 mới có dấu chấm. Trận đánh đó mang lại cho Trung Quốc cái gì? Mang lại cho Trung Quốc rất nhiều thời gian, rất nhiều nguồn vốn, rất nhiều kỹ thuật… Vì thế có thể nói, bước đi đầu tiên của cải cách mở cửa Trung Quốc đã được cất lên từ cuộc chiến tranh này… [*]

DDD

Nguồn Trung Quốc báo đạo chu san 28/5/2005 đăng lại trên “Bách gia tranh minh”.

[*] Sau khi đọc thêm phần trích dịch cần thiết của ông Dương Danh Dy nhằm bổ sung cho phần dịch của ông Nguyễn Hải Hoành, BVN xin cung cấp thêm một vài nét về tiểu sử và con người Lưu Á Châu để chúng ta có cái nhìn phía này và phía khác của họ Lưu cho toàn diện: Lưu Á Châu là một sĩ quan cao cấp quân đội Trung Quốc nổi tiếng vì có những phát ngôn thẳng thắn, dám công khai phê phán, góp ý cho nhiều chủ trương chiến lược cấp cao nhất của TQ. Năm 1972 (20 tuổi) đi học ĐH ngoại ngữ tiếng Anh trong khi đang ở bộ đội. Tốt nghiệp ĐH làm cán sự Ban Liên lạc Không quân, thăng tiến rất nhanh. 38 tuổi làm Chính ủy một Viện kỹ thuật binh chủng tăng thiết giáp, 44 tuổi được phong quân hàm Thiếu tướng, 45 tuổi làm Chủ nhiệm chính trị không quân Quân khu Bắc Kinh, 50 tuổi là Chính ủy không quân Quân khu Thành Đô. 51 tuổi (2003) phong Trung tướng, làm Phó chính ủy binh chủng Không quân Trung Quốc, từ 25/1/2010 được đề bạt làm Chính ủy Trường đại học Quốc phòng Trung Quốc, ngang cấp Tư lệnh Đại quân khu.

Con đường thăng tiến nhanh như diều của Lưu cũng đủ thấy lập trường cơ bản của Lưu là ủng hộ phe đương quyền lúc bấy giờ do Đặng Tiểu Bình cầm chịch. Được coi là một tướng lĩnh cấp cao có tinh thần đổi mới tư tưởng chiến lược quân sự, tiếp thu các trào lưu tư tưởng tiên tiến phương Tây, phê phán sự lạc hậu bảo thủ của văn hóa truyền thống Trung Quốc, phê phán các tôn giáo Nho, Lão, Phật, Lưu ủng hộ đường lối cải cách mở cửa, đồng thời cũng ủng hộ triệt để lập trường xử lý vụ Thiên An Môn và cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam năm 1979 mà TQ gọi là “chiến tranh phản kích tự vệ” của Đặng Tiểu Bình. Lưu phê phán Cách mạng văn hóa và các sai lầm của Mao Trạch Đông nhưng vẫn đề cao tư tưởng Mao Trạch Đông. Có công trong việc bí mật hội đàm với Hàn Quốc để lập quan hệ ngoại giao Trung Quốc-Hàn Quốc.

Gần đây Lưu Á Châu phát biểu nhiều về việc Trung Quốc cần cải cách chế độ chính trị, thực hiện dân chủ hóa chính trị chứ không nên chỉ đơn thuần phát triển kinh tế. Lưu dám nói những câu như: Nếu một hệ thống không cho người dân được thở không khí tự do và phát huy sức sáng tạo đến mức tối đa, không lựa chọn đưa vào các vị trí lãnh đạo những người tốt nhất đại diện cho chế độ và nhân dân, thì hệ thống ấy sẽ đi đến diệt vong... và dự đoán: Trong 10 năm tới Trung Quốc không thể tránh khỏi xảy ra sự chuyển đổi từ chính trị của quyền lực sang dân chủ.

Lưu Á Châu bắt đầu sáng tác văn học từ 1974. Một số tác phẩm đã được giải thưởng. Tác phẩm chủ yếu: Trần Thắng; Chiến tranh do ác quỷ đạo diễn; Quảng trường; Cái chết của Hồ Diệu Bang, và nhiều chuyên luận quân sự, chính trị như Đại quốc sách; Đại chiến lược Trung Quốc 20 năm tới; Bàn về miền Tây;... rất có tiếng vang trong dư luận. 32 tuổi vào Hội Nhà văn, được bầu làm Ủy viên ban chấp hành Hội.

Lưu Á Châu có tác phong sống gương mẫu, giản dị, gần quần chúng. Khi xuống các đơn vị bộ đội đều không ăn nhậu, tối ngủ cùng lính. Khi cấp trên đến làm việc, Lưu không bao giờ chiêu đãi ăn uống.

Được đăng bởi bvnpost vào lúc 09:04

Nhãn: Trung Quốc